Tấm hình chóa nắng

Một chiều nắng nhạt, điện thoại tôi rung nhẹ báo một tin nhắn vừa tới. Vừa đúng lúc tôi đang ngồi suy nghĩ vẩn vơ, tôi quẹt nhẹ dòng thông báo của Zalo và mở tin nhắn ra đọc. Một tấm hình chụp vào buổi trưa với ánh sáng rực rỡ của vùng nhiệt đới, đơn giản chỉ là một tấm ảnh của một chiếc bàn cà phê mộc mạc. Trên bàn là một cuốn sách nằm hờ hững với một tấm bìa màu tối có tựa đề “Chủ nghĩa khắc kỷ”. Nằm kế bên là một ly nước ép trái cây được trang trí bởi một lát chanh nhỏ bé, có lẽ đang nhẹ nhàng tỏa vị thơm mát vào một trưa nắng mùa xuân ở Sài Gòn. Một điều thú vị nữa mà tôi chú ý tới là một cặp kính mát nằm ngạo nghễ trong khung cảnh tràn ngập ánh sáng này. Có lẽ bạn tôi đang ngồi trong một quán cà phê nào đó, một mình, gặm nhấm những hoài niệm và suy tư về cuộc sống.
Còn tôi thì tưởng tượng ngay hình ảnh của mình đang nằm dưới một tấm dù che, thảnh thơi đâu đó ở Cù Lao Chàm, đeo kính mát và nheo mắt nhìn bầu trời xanh trong suốt, vươn tầm mắt ra tuốt ngoài khơi xa về phía những con tàu đánh cá bằng gỗ đang bồng bềnh. Đối với tôi, tấm hình mà bạn tôi gửi, đã đem lại cho tôi một sự liên tưởng trực quan và sâu sắc đối với hai chữ “khắc kỷ”. Ngay trong khoảnh khắc đó, tôi đã nghĩ đến việc mình cần phải trải lòng những suy nghĩ của mình về khắc kỷ và mong rằng ai đó khi đọc được những dòng này sẽ cảm thấy có một phần mình trong đó.

Dũng sĩ giác đấu
“Điều không phải thì không được làm, điều không đúng sự thật thì không được nói”
Marcus Aurelius
“If it is not right do not do it; if it is not true do not say it.”
Marcus Aurelius

Các bạn có biết không, tôi đã rời mái trường đại học và trở thành bác sĩ đã 25 năm. Là một trong những bác sĩ tốt nghiệp ĐH Y Dược TP. HCM mở đầu thiên niên kỷ mới vào năm 2000, tôi và các bạn có rất nhiều hoài bão và ước mơ về con đường phát triển sự nghiệp trước mắt. Thế nhưng, điều mà tôi muốn nói với các bạn hôm nay lại không phải là về những giấc mơ ấy. Tôi muốn nói với bạn về một vị Hoàng đế La Mã, ông là Marcus Aurelius. Tôi biết đến tên vị vua này cũng vào năm ấy khi bộ phim đầu tiên Dũng sĩ giác đấu Gladiator (2000) ra đời, và không biết có trùng hợp không khi tôi cũng mới xem phần hai của bộ phim ấy Gladiator 2 (2024) thời gian gần đây. Trong bộ phim Dũng sĩ giác đấu đầu tiên, Marcus Aurelius được khắc họa là một hoàng đế già dặn, thông thái, và công bằng, người mong muốn khôi phục lại nền Cộng hòa La Mã. Tuy nhiên, vai trò của ông trong phim và các sự kiện liên quan đã được hư cấu khá nhiều so với lịch sử thực tế. Marcus Aurelius, do Richard Harris thủ vai, muốn trao lại quyền lực cho tướng Maximus Decimus Meridius ,một nhân vật hư cấu do Russell Crowe thủ vai, thay vì để con trai ông là Commodus kế vị. Bước ngoặt này khiến cho Commodus đã giết cha mình để chiếm đoạt ngai vàng.

Điều thú vị là những tình tiết này đều hư cấu so với lịch sử. Marcus Aurelius không bị giết mà qua đời bởi một đợt dịch bệnh lớn thời La Mã là dịch Antonine. Bạn biết không? dịch Antonine là một đại dịch tàn khốc đã tấn công Đế chế La Mã giữa năm 165 và 180 sau Công nguyên, gây ra ước tính từ 5 đến 10 triệu ca tử vong. Nó còn được gọi là Dịch bệnh của Galen, có thể đây là bệnh đậu mùa hoặc sởi mà có khả năng đã được mang về bởi những binh lính trở về từ các cuộc chiến vùng Cận Đông. Ngày nay, chúng ta hầu như không còn thấy các bệnh dịch này nữa nhờ có vắc xin. Dịch Antonine là một sự kiện lịch sử đáng nhớ để nhắc nhở chúng ta tầm quan trọng của vắc xin trong việc bảo vệ sự sống còn của loài người. Xin quay lại với Marcus Aurelius, ông đã cùng con trai của mình là Commodus cùng cai trị La Mã như đồng hoàng đế trong ba năm cuối đời, và sau đó Commodus được kế vị cha. Trong phim thì Marcus Aurelius mong muốn chấm dứt chế độ quân chủ và trao quyền lực lại cho Thượng viện La Mã. Tuy nhiên trong thực tế thì không có tài liệu lịch sử nào cho thấy ông có ý định khôi phục nền Cộng hòa như vậy cả. Ông được biết đến nhiều hơn với vai trò là một triết gia theo trường phái Khắc kỷ nổi bật và một nhà lãnh đạo quân sự tài ba.
Trong phim, có một cảnh Marcus Aurelius nói chuyện với Maximus: “Khi một người đàn ông nhìn thấy cái chết đến, anh ta có thể làm hai điều – chấp nhận số phận của mình và đón nhận nó một cách cao thượng, hoặc run rẩy và chống cự lại nó.” Câu nói này đã khiến tôi bắt đầu tìm hiểu sâu hơn về triết lý khắc kỷ. Càng đi sâu tìm hiểu về khắc kỷ, tôi lại càng có ấn tượng sâu sắc về tư duy và sự điềm tĩnh và khôn ngoan của Marcus Aurelius khi đối diện với những trắc trở của cuộc sống.
Khắc kỷ là gì?
“Chúng ta tự làm khổ mình nhiều hơn thực tế”
Seneca
“We suffer more often in imagination than in reality”
Seneca
Theo như tôi tra cứu, và xin được các học giả chỉ giáo thêm, từ “Khắc kỷ” (克己) thực ra là một thuật ngữ Hán Việt được dùng để dịch từ triết học “Stoicism” của phương Tây. Trong tiếng Hán, “khắc” (克) có nghĩa là chiến thắng, vượt qua, kiềm chế; còn “kỷ” (己) có nghĩa là bản thân, chính mình. Như vậy, khi được ghép lại, “Khắc kỷ” mang ý nghĩa là “tự kiềm chế bản thân” hoặc “làm chủ bản thân”, rất phù hợp với tinh thần cốt lõi của triết học Stoicism, vốn là một triết lý sống nhấn mạnh việc làm chủ cảm xúc, kiểm soát ham muốn và phát triển đức hạnh cá nhân.

Như vậy, việc các học giả dịch Stoicism thành “Khắc kỷ” thực ra là một nỗ lực tìm một khái niệm tương đương trong văn hóa Á Châu có thể truyền tải được tinh thần của triết học Hy Lạp-La Mã này. Tất nhiên, chúng ta có thể biết ngay rằng sẽ chẳng có sự tương đương hoàn toàn giữa hai khái niệm, vì “Khắc kỷ” trong văn hóa phương Đông còn mang nhiều sắc thái riêng của Nho giáo và Đạo giáo và thậm chí Phật giáo mà khi có dịp tôi sẽ xin phép nói đến sau.
Cội nguồn của chủ nghĩa Khắc kỷ
Khắc kỷ (Stoicism) là một trường phái triết học có nguồn gốc từ Hy Lạp cổ đại, được thành lập vào khoảng năm 300 TCN bởi Zeno thành Citium. Sau đây là một số điểm mấu chốt khi nhắc tới chủ nghĩa khắc kỷ:
- Người sáng lập: Zeno (khoảng 334-262 TCN) là một thương nhân gốc Phoenicia đến từ Citium (hiện nay là Cyprus). Sau khi bị đắm tàu gần Athens, ông đã đọc nhiều về Socrates và bị cuốn hút vào triết học.
- Tại sao có tên gọi là “Stoicism“: Chữ này bắt nguồn từ “Stoa Poikile” (Cổng Đa Sắc), một hành lang có cột trụ ở Athens nơi Zeno thường giảng dạy triết lý của mình.
- Chủ nghĩa khắc kỷ chịu nhiều ảnh hưởng của các trường phái triết khọc khác như:
- Triết học của Socrates về đức hạnh và tự kiểm soát
- Trường phái Cynic về lối sống theo tự nhiên và đơn giản
- Học thuyết của Heraclitus về lửa nguyên thủy và logos (lý tính vũ trụ)
- Các giai đoạn phát triển:
- Khắc kỷ thời kỳ đầu: Do Zeno, Cleanthes và Chrysippus dẫn dắt tại Athens
- Khắc kỷ thời kỳ trung: Phát triển tại Rhodes và Alexandria với Panaetius và Posidonius
- Khắc kỷ thời kỳ La Mã: Chủ nghĩa khắc kỷ được du nhập vào La Mã khoảng thế kỷ 2 TCN, nơi nó phát triển mạnh mẽ và có ảnh hưởng lớn đến giới tinh hoa La Mã. Đây cũng là thời kỳ hoàng kim của triết lý này với Seneca, Epictetus và Hoàng đế Marcus Aurelius
Triết học Stoicism tập trung vào việc phát triển sự tự chủ và kiên cường trước nghịch cảnh, phân biệt rõ giữa những gì ta có thể kiểm soát và không thể kiểm soát, đồng thời sống hòa hợp với tự nhiên và lý tính vũ trụ. Những nguyên tắc này đã tồn tại qua hàng nghìn năm và vẫn có ảnh hưởng lớn đến tư tưởng và tâm lý học ngày nay.
Ba trụ cột của khắc kỷ
Nội dung của khắc kỷ vô cùng sâu sắc, tuy nhiên chúng ta có thể nắm được tinh thần chủ đạo của hệ tư tưởng này thông qua ba trụ cột chính được trình bày dưới đây.
- 1. Dichotomy of Control (Phân biệt điều có thể kiểm soát được)
- Tập trung vào những điều trong tầm kiểm soát như suy nghĩ, hành động và phản ứng của bản thân
- Chấp nhận những điều ngoài tầm kiểm soát như thời tiết, ý kiến người khác, hay các sự kiện bên ngoài
“Hạnh phúc và tự do bắt đầu với sự hiểu biết rõ ràng về một nguyên tắc: một số thứ nằm trong tầm kiểm soát của chúng ta và một số thì không.”
Epictetus
“Happiness and freedom begin with a clear understanding of one principle: Some things are within our control, and some things are not. It is only after you have faced up to this fundamental rule and learned to distinguish between what you can and can’t control that inner tranquility and outer effectiveness become possible”
Epictetus
- 2. Virtue as the Only Good (Đức hạnh là điều tốt duy nhất)
- Sống có đạo đức và chính trực là con đường dẫn đến hạnh phúc thực sự
- Bốn đức tính cốt lõi bào gồm: Khôn ngoan (Wisdom), Công bằng (Justice), Dũng cảm (Courage), và Tiết độ (Temperance)
Nếu không có gì quý giá hơn thần tính trong tâm bạn – thứ đã chinh phục mọi thôi thúc, sàng lọc tư tưởng, tách khỏi ham muốn thể xác (như Socrates đã dạy), và tìm thấy sự viên mãn trong công lý, tiết độ cùng các đức tính khác. Nếu mọi thứ khác đều trở nên tầm thường và vô giá trị khi so sánh, thì đừng nhường chỗ cho bất cứ điều gì khác nữa …
Marcus Aurelius
But if nothing is better than the divinity seated within you, which has conquered all your impulses, which sifts your thoughts, which, as Socrates said, has detached itself from the promptings of the body… and finds fulfillment in justice, self-control, and the other virtues—if you find all other things trivial and valueless by comparison—then don’t make room for anything else…
Marcus Aurelius
- 3. Living According to Nature (Sống hài hòa với tự nhiên)
- Chấp nhận thực tại như nó vốn có, không phàn nàn về những điều không thể thay đổi
- Hiểu và tuân theo quy luật tự nhiên, thay vì chống lại nó
“Hạnh phúc đến từ việc sống hòa hợp với tự nhiên”
Seneca
“A happy life, therefore, is one which is in accordance with its own nature”
Seneca
Khi tìm hiểu về khắc kỷ, tôi thấy có hai khái niệm rất thú vị đáng để bàn tới đó là “amor fati” (yêu thương số phận) và “memento mori” (nhớ rằng ta sẽ chết). Chúng có mối liên hệ với cả ba cột trụ của khắc kỷ mà chúng ta đã bàn ở trên. Chúng ta có thể lạm bàn như sau:
Amor fati (yêu thương số phận) có liên hệ chủ yếu với:
- Dichotomy of Control: Yêu thương số phận là thể hiện cao nhất của việc chấp nhận những gì nằm ngoài tầm kiểm soát của ta. Đó không đơn thuần chỉ là chấp nhận mà còn yêu thương chính những điều không thể thay đổi, xem chúng như một phần tất yếu của cuộc sống.
- Living According to Nature: Yêu thương số phận là sống hòa hợp với tự nhiên và trật tự vũ trụ (Logos), chấp nhận mọi thứ diễn ra theo quy luật tự nhiên.
Memento mori (nhớ rằng ta sẽ chết) lại gắn kết chặt chẽ với:
- Dichotomy of Control: Cái chết là điều không thể tránh khỏi nằm ngoài tầm kiểm soát của chúng ta. “Memento mori” giúp chúng ta chấp nhận thực tế này.
- Virtue as the Sole Good: Nhận thức về cái chết giúp chúng ta tập trung vào đức hạnh – điều duy nhất thực sự quan trọng theo chủ nghĩa khắc kỷ. Khi đã biết cuộc sống ngắn ngủi, chúng ta sẽ không lãng phí thời gian cho những điều vô giá trị.
- Living According to Nature: Cái chết là một phần tự nhiên của vòng đời. Nhớ về cái chết giúp chúng ta sống hài hòa với quy luật tự nhiên thay vì chống lại nó.
Như vậy chúng ta có thể thấy, mặc dù không phải là một trong ba cột trụ chính nhưng “amor fati” và “memento mori” là những ứng dụng thực tiễn của triết học khắc kỷ giúp người thực hành áp dụng ba cột trụ vào cuộc sống hàng ngày. Đây là những công cụ tâm lý mạnh mẽ giúp người theo khắc kỷ vượt qua nỗi sợ hãi, chấp nhận thực tại và tập trung vào đức hạnh.
Hướng về phía mặt trời
“Hãy hướng về phía mặt trời và bạn sẽ chẳng thấy một cái bóng nào.”
Helen Keller
“Keep your face to the sunshine and you cannot see a shadow.”
Helen Keller
Vào những năm cuối thập niên 80, tôi đã tham gia kỳ thi vào trường Trung học phổ thông chuyên Hà Nội – Amsterdam, một ngôi trường danh tiếng mà từ đó đến nay, hầu hết học sinh sau khi tốt nghiệp đều đạt được những thành tích xuất sắc. Thời đó, với năng lực của mình trong môn Hóa và sự tin tưởng từ thầy giáo, tôi có rất nhiều hy vọng sẽ vượt qua kỳ thi tuyển sinh vào lớp chuyên Hóa của trường.
Thế nhưng, như triết gia Epictetus từng nói: “Những thứ bên ngoài ta thì chẳng do ta kiểm soát.” Trong ngày thi quyết định, có thể nói là định mệnh ấy, dù đã chuẩn bị kỹ lưỡng, tôi đã phạm một lỗi tính toán cơ bản. Có lẽ tôi đã quá mong chờ, quá căng thẳng do áp lực cuộc thi khiến tôi bị cảm và sốt cao khi kỳ thi đến. Điều gì đến cũng đã đến, tôi đã biết kết quả của mình ngay khi tiếng chuông báo hết giờ lanh lảnh vang lên.
“Some things are within our power, while others are not. Within our power are opinion, motivation, desire, aversion, and, in a word, whatever is of our own doing; not within our power are our body, our property, reputation, office, and, in a word, whatever is not of our own doing.”
Epictetus
Có thể nói đó là lần đầu tiên trong đời tôi phải đối mặt với thất bại trong một mục tiêu học tập, vốn là lĩnh vực mà tôi luôn tự hào. Nhận được kết quả đắng cay, tôi đã buồn ghê gớm trong suốt mấy ngày. May mắn thay, thay vì đắm chìm trong thất vọng, tôi đã chấp nhận thực tế và nhanh chóng tiếp tục con đường học tập của mình tại trường THPT Thăng Long, Hà Nội và sau đó là trường THPT Lê Quý Đôn, TP. Hồ Chí Minh. Trong ký ức của tôi, thời trung học chứa những ký ức đẹp nhất của thuở niên thiếu. Một thời gian không lâu sau, tôi theo gia đình chuyển vào Sài Gòn tiếp tục học trung học, rồi sau đó theo đuổi ngành y khoa. Có lẽ tôi đã thật may mắn, không xem thất bại là một điều bất hạnh và tự gặm nhấm nỗi buồn đến mức ảnh hưởng đến học vấn, ngược lại tôi đã nhìn nhận nó như một cơ hội để phát triển bản thân tốt hơn. Người ta cho rằng Hoàng đế La Mã Marcus Aurelius đã viết: “Hãy chấp nhận điều gì đến với mình như đó là định mệnh, như tự nhiên đã an bài.” Nhìn lại chuyện đã xảy ra, tôi nhận ra rằng không có sự kiện nào thực sự hoàn toàn tốt hay hoàn toàn xấu. Sự phân biệt đó chỉ là những đánh giá chủ quan của chúng ta về các sự kiện ở một thời điểm nhất định. Sau này, khi nhìn lại, ta cũng nhận ra đó chỉ là trải nghiệm để quyết định một con đường cho chính mình mà thôi.
“Accept the things to which fate binds you, and love the people with whom fate brings you together, but do so with all your heart.”
Marcus Aurelius
Sau đó nhiều năm, khi tôi nhìn lại thất bại mang tính bước ngoặt này tôi mới hiểu được rằng tôi sẽ không có ngày hôm nay nếu không có nó. Thất bại ấy đã dạy cho tôi cách chuẩn bị cho những kỳ thi quan trọng, học cách chấp nhận và tiếp tục đi tới. Thất bại ấy có lẽ cũng ảnh hưởng một phần đến quyết định của cha mẹ tôi chuyển vào Sài Gòn sinh sống sớm hơn dự tính ít năm. Nếu tôi được học ở trường Hà Nội – Amsterdam, niềm tự hào không nhỏ của các ông bố bà mẹ thời ấy, có lẽ tôi cũng không có duyên với Trường ĐHYD TP. Hồ Chí Minh sau này. Các bạn thân mến, tôi muốn hỏi nhỏ bạn điều này, bạn còn nhớ bài phát biểu trước thềm năm học mới của Steve Jobs ở trường ĐH Stanford vào ngày 12 tháng 6 năm 2005 đấy chứ?
“Bạn sẽ không dễ kết nối các sự kiện khi nhìn về tương lai, nhưng tất cả đều rõ ràng khi nhìn về quá khứ. Điều bạn cần làm là phải tin tưởng chúng sẽ đưa bạn về đích.”
Steve Jobs
“You can’t connect the dots looking forward; you can only connect them looking backwards. So you have to trust that the dots will somehow connect in your future. You have to trust in something—your gut, destiny, life, karma, whatever. This approach has never let me down, and it has made all the difference in my life”
Steve Jobs
Giờ đây khi ngẫm lại, tôi đã hiểu rằng con đường mình đang đi là con đường mà số phận đã dành cho mình, con đường đó không tốt hơn hay xấu hơn con đường ban đầu tôi đã dự định, chỉ đơn giản là có sự khác biệt. Bạn có thấy thú vị không khi Seneca, một triết gia khắc kỷ nổi tiếng, đã từng nói: “Số phận luôn dẫn lối cho người sẵn sàng và kéo lê những kẻ cứng đầu”
“Ducunt volentem fata, nolentem trahunt.” – “The fates lead the willing and drag the unwilling.”
Seneca
Thật thú vị khi nhận ra rằng, thất bại lại chính là một phần tất yếu của hành trình dẫn đến thành công. Cách chúng ta phản ứng trước những thử thách – với sự điềm tĩnh, chấp nhận và kiên cường – mới thực sự định hình con người và số phận của chúng ta. Phải không các bạn?
Trăn trở
Tôi cũng cảm thấy rất ngạc nhiên với bản thân mình khi chỉ vì nhìn thấy tấm hình chóa nắng “yêu nghiệt” kia mà tôi lại quyết định viết đến lúc này. Nói theo y khoa, có lẽ tấm hình đó đã kích hoạt một “vòng xoáy bệnh lý” khiến tôi phải viết, viết và viết. Tất nhiên, do chủ đề còn quá rộng nên còn rất nhiều thứ nữa tôi còn chưa đề cập tới. Chẳng hạn như:
- Khắc kỷ đến từ phương Tây, vậy có triết lý nào tương tự tồn tại trong văn hóa phương Đông hay không?
- Có những nhà tư tưởng nào của phương Đông và Việt Nam chúng ta có thể sánh vai cùng Hoàng đế Marcus Aurelius được không?
- Khắc kỷ đã thay đổi cuộc sống hàng ngày của tôi như thế nào?
- Làm thế nào để ứng dụng khắc kỷ trong cuộc sống bon chen hiện tại?
Hy vọng là nếu “vòng xoáy bệnh lý” của tấm hình kia vẫn còn, thì phần tiếp theo của bài viết này tôi có thể lại trải lòng cùng các bạn.

Mùa thu đã đến rồi mà sao vẫn nóng người ơi!,
Tháng 4 năm 2025.